Loading...

Tin tức hoạt động

Chuyển đổi nhận thức về an sinh xã hội vì phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

04/12/2015

 1. An sinh xã hội - Quan niệm

An sinh xã hội (ASXH) đang đặt ra và được hầu hết các quốc gia quan tâm hoàn thiện không ngừng, nhất là trong một xã hội phát triển với xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay. Vì vậy, ASXH không chỉ là vấn đề riêng rẽ của một quốc gia mà là vấn đề chung của cộng đồng quốc tế. Tuy hiện nay, mỗi quốc gia vẫn có cách hiểu về ASXH và xây dựng hệ thống có những điểm khác nhau, nhưng điểm chung nhất được công nhận, thì ASXH, đó là một “vỏ bọc” hay một “giá đỡ”, một “chiếc ô” che chở… nhằm bảo đảm cho một xã hội và mỗi con người (trong đó con người được đặt ở vị trí trung tâm) sự bảo đảm về/bằng vật chất, tinh thần và các dịch vụ xã hội… mà nhà nước, cộng đồng dân cư, nhóm người hay một tổ chức (gồm các cá nhân, tập thể hay cộng đồng) tạo nên. Nó mang đến cho những đối tượng nghèo đói, yếm thế, gặp rủi ro bất thường về các nhu cầu cơ bản khi họ phải đối diện với khó khăn, thách thức. Từ đó, ASXH được một hệ thống chính sách, pháp luật, chương trình hay những bộ quy tắc của xã hội tạo ra, được Nhà nước thực hiện bằng nguồn ngân sách và sự huy động từ nhiều nguồn lực nhằm nâng cao năng lực của người dân, của gia đình, và cộng đồng để tăng cường khả năng ngăn ngừa, chống đỡ, giảm nhẹ, khắc phục những rủi ro gặp phải trong cuộc sống. Theo quan niệm này, ASXH đem đến cho tất cả mọi người quyền hưởng sự an toàn.Quyền đó đặt trên sự thỏa mãn tối thiểu về kinh tế, văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển trong trường hợp thất nghiệp hoặc gặp phải rủi ro. Đó chính là sự bảo vệ mà xã hội dành cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp công cộng đối phó với những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng và bị giảm thu một cách đáng kể bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tuổi già hoặc chết hay sự bảo đảm trợ cấp cho những gia đình đông con…      

2. Hệ thống An sinh xã hội Việt Nam hiện nay

Hệ thống An sinh xã hội Việt Nam hiện nay là một bộ phận của Chính sách ASXH, được gắn kết hữu cơ với các chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm ổn định chính trị gắn với sức mạnh quốc phòng - an ninh trong xây dựng và bảo vệ đất nước; phát triển bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng. Bao gồm: 

2.1. Bảo hiểm xã hội, là trụ cột quan trọng nhất của nền ASXH. Nó bao gồm cả một hệ thống cả về chính sách, tổ chức và nguồn lực để vận hành, bảo đảm được tính bền vững và không ngừng phát triển của thể chế. Vì vậy, nó liên quan và thậm chí “chi phối” và ảnh hưởng đến nhiều chính sách phát triển của quốc gia. Vận hành của Bảo hiểm xã hội theo hai cơ chế: bắt buộc và tự nguyện. BHXHVN hiện đã có các doanh nghiệp tư nhân tham gia, thực hiện đa dạng hóa hoạt động và huy động nguồn lực.

2.2. Ưu đãi xã hội, được coi là bộ phận căn cốt của nền An sinh xã hội, thực hiện công nhận, tôn vinh, đãi ngộ cho đối tượng người có công được hưởng các trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng qua các chế độ ưu đãi về vật chất, tinh thần phù hợp với điều kiện cụ thể của khả năng kinh tế đất nước và luôn được điều chỉnh bởi các chế định Nhà nước.   

2.3. Trợ giúp xã hội là bộ phận thiết yếu hướng vào nhóm cư dân thiệt thòi, yếm thế thường dễ bị tổn thương. Họ không có khả năng bảo đảm được nhu cầu tối thiểu của cuộc sống do bị rơi vào hoàn cảnh rủi ro, éo le bất thường. Trợ giúp xã hội được thực hiện bằng nguồn quỹ phúc lợi của Nhà nước và sự huy động từ cộng đồng. Đối tượng cần trợ giúp rất đa dạng và thường không ổn định và có các hình thức trợ giúp thường xuyên và trợ giúp đột xuất.

2.4. Chính sách lao động, là hệ thống chính sách của Nhà nước, hướng bảo đảm cho nhu cầu về việc làm hay ít nhất cũng tạo cho nhóm người rủi ro có cơ hội. Chẳng hạn, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số khu vực nông thôn được đào tạo nghề để có việc làm, được khám, chữa bệnh, hoặc trợ giúp khi chưa có việc làm, giúp họ vượt qua những khúc cam go của cuộc sống.

2.5. Các phong trào xã hội là những hoạt động của cộng đồng thường mang tính đơn lẻ, qua đó giúp đỡ, chia sẻ với những người gặp khó khăn. Các phong trào này là hoạt động riêng lẻ trong mạng lưới ASXH. Nó hình thành và tồn tại bởi truyền thống văn hóa, tình tương thân tương ái, vì vậy, nó khác với các mạng lưới của hệ thống ASXH của các nước khác.

Trong đời sống, rủi ro có thể ngẫu nhiên đến với bất cứ con người nào và trong những hoàn cảnh không giống nhau. Trong đó, nhóm dễ bị tổn thương nhất là trẻ em và phụ nữ, người già, người bị bệnh tật, đồng bào dân tộc thiểu số và vùng khó khăn.

Việc thực thi chính sách ASXH là trách nhiệm của cả cộng đồng, của các tổ chức quốc tế, thậm chí là ở từng con người, từng đơn vị doanh nghiệp…        

Nghiên cứu để ban hành các chính sách trợ giúp xã hội trong ASXH là phải nghiên cứu các quy luật chi phối nó với đời sống, sự hình thành các nguy cơ, các giải pháp ứng phó để hướng tới chính sách hữu hiệu, phù hợp với cuộc sống. Để xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm ASXH cần phải có cách nhìn tổng thể và phải dựa vào hai xuất phát điểm, đó là: a) Phải xây dựng một hệ thống lý luận làm cơ sở và hệ quy chiếu cho các đối tượng của ASXH và xây dựng được mục tiêu hướng tới sự hoàn thiện; b) cần phải nắm vững được đối tượng, mục tiêu hướng định và thực trạng xã hội của ASXH.

Bảo hiểm xã hội là một trụ cột vững chắc của ASXH. Bởi vì, BHXH với các loại hình huy động nguồn lực là bắt buộc và tự nguyện. BHXH bắt buộc là một chế định pháp lý nhằm bảo vệ an toàn và an sinh nhất cho người lao động bằng cách thông qua nguồn tài chính huy động được từ người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước góp phần tạo ra sự ổn định cho không chỉ người lao động mà cả gia đình họ khi ốm đau, tai nạn, thai sản, già hoặc chết…dẫn đến gia đình họ bị giảm thu bất ngờ.

Chính sách cho ASXH được thực hiện bằng nhiều hình thức như cứu trợ xã hội, dịch vụ xã hội, chăm sóc y tế, và các khoản trợ cấp như trợ cấp thôi việc, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn… Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách đối với người nghèo, với các nhóm cư dân cư trú ở vùng sâu, vùng xa, hướng tới giảm khoảng cách chênh lệc giữa các nhóm cư dân.  

Trải qua chiến tranh dài, nền kinh tế đất nước trì trệ, kém phát triển nên hệ thống ASXH Việt Nam không ổn định, thường phải áp dụng các giải pháp tình thế trước mắt. Thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp cũng đã cản trở không nhỏ đến sự phát triển mở rộng hệ thống ASXH. Vậy nên, việc chăm lo cho các đối tượng công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, người có công chỉ dừng ở mức tối thiểu. Các đối tượng khác chưa được chú trọng quan tâm. Vì vậy,  ngoài việc huy động nguồn ngân sách, Nhà nước cần mở rộng mạnh hơn cơ chế huy động sự trợ giúp từ cộng đồng như xây dựng các loại quỹ xã hội và cổ súy cho huy động nguồn lực tổng hợp để trợ giúp đạt hiệu quả cao. 

3. Tiếp cận An sinh xã hội

Hiện nay ASXH Việt Nam đang đứng trước yêu cầu bức thiết phải xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các chế độ bảo đảm cho nền ASXH hoàn chỉnh trong cơ chế thị trường và hội nhập sâu rộng, phục vụ cho sự phát triển bền vững của đất nước. ASXH với ý nghĩa và nội dung của nó vô cùng rộng lớn và bao quát đến nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị xã hội và cả trong lĩnh vực an ninh quốc phòng. Cần có những cách tiếp cận hài hòa, khoa học và thực tiễn.

3.1. Về phương pháp luận mác xít. Để xây dựng hoàn thiện hệ thống các giải pháp về ASXH, không thể không tiếp cận theo phương pháp trong cách nhìn nhận đánh giá nền ASXH về hình thành, vận hành trên nền tảng kinh tế - xã hội với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, khách quan. Yêu cầu phát triển nền ASXH là xuất phát từ thực tiễn khách quan, tất yếu, tự thân đối với mỗi đất nước, mỗi cộng đồng nếu muốn hướng tới sự phát triển bền vững. Vì vậy, cần phải xác định các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng hệ thống ASXH hoàn thiện vì mục tiêu lâu dài trong phát triển.

3.2. Về cơ cấu, chức năng của ASXH. Là nhìn nhận và đánh giá nó dưới tác động sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội tới các nhóm xã hội, nhất là nhóm yếm thế. Trên thực tế, khi kinh tế của nền kinh tế thị trường phát triển cao hơn thì tác động và rủi ro tới một bộ phận người dân càng lớn, nó làm thay đổi cơ cấu, chuyển dịch địa vị, vai trò của nhiều cá nhân và cộng đồng. Hệ thống được hiểu là tập hợp của nhiều đơn vị, yếu tố và thành phần tương tác hợp thành thì cũng phải hiểu rằng ASXH cũng là một hệ thống nên phải được xem xét, đánh giá, phân định và với vai trò của một thể chế để đưa đến những quyết sách phát triển phù hợp.

3.3.  Về biến đổi xã hội. Biến đổi xã hội là một tất yếu và mang tính phổ biến. Đó chính là quá trình mà khuôn mẫu, hành vi, thiết chế, sự phân tầng và các ứng đáp xã hội thay đổi theo thời gian. Do sự biến đổi và hành vi ứng đáp này mà các nhóm yếm thế cũng có nhiều cơ hội để thoát ra khỏi địa vị xã hội yếm thế của họ.

3.4. Về phân tầng xã hội. Đó chính là hệ thống các vị trí xã hội của một trật tự xã hội. Vị trí càng quan trọng thì xu hướng chiếm lĩnh nó càng mạnh mẽ và quyết liệt bởi nó được xã hội cung cấp nhiều tiện ích hơn. Phân tầng xã hội có tính khách quan, tất yếu. Nhưng xã hội phải xác định được rằng cần phải có sự trợ giúp xã hội cho những nhóm yếm thế và những rủi ro để tạo ra sự ổn định xã hội.

4. Vai trò của An sinh xã hội

Chính sách xã hội (CSXH) là những phương thức, cơ chế và biện pháp của Nhà nước, của Đảng và tổ chức xã hội nhằm thỏa mãn không ngừng các yêu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân phù hợp với sự phát triển của đất nước. CSXH là sự cụ thể hóa các chủ trương, phương thức, biện pháp đó trong thực tiễn bằng các chế định của pháp luật. Vậy nên, ASXH có vai trò rất to lớn trong CSXH.

Ít nhất và trước hết là, vai trò bảo đảm. Bảo đảm là luôn duy trì và hướng tới sự an toàn của các thành viên trong xã hội. Vai trò, nhiệm vụ này của ASXH nhằm phát huy hết mọi tiềm năng, nguồn lực con người, tạo ra cho họ cơ hội phát triển tốt nhất. Nó được cụ thể hóa bằng những chính sách y tế, an sinh giáo dục, lao động và việc làm, sự chăm sóc tinh thần và các phúc lợi xã hội khác.

Hai là, vai trò bảo hiểm. Bảo hiểm xã hội là một chế định xã hội nhằm huy động nguồn tài chính từ người lao động, người sử dụng lao động, sự hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức xã hội và các nguồn khác về vật chất để bảo hiểm cho gia đình hoặc người lao động, cho đối tượng chính sách xã hội người có công… khi ốm đau, tai nạn, thai sản hay già yếu, bệnh tật hay chết dẫn đến giảm bất ngờ các nguồn thu nhập.

Ba là, vai trò hỗ trợ. Là vai trò tất yếu của ASXH. Nó nhằm bảo vệ cho các nhóm cư dân thiệt thòi, yếm thế, không đủ khả năng vật chất để bảo đảm nhu cầu tối thiểu của cuộc sống nên họ dễ tổn thương. Hỗ trợ gồm: trợ cấp thường xuyên hay đột xuất… Hoạt động này rất linh hoạt và ngày càng có yêu cầu cao; đối tượng ngày càng mở rộng, không chỉ ốm đau, bệnh tật, bệnh xã hội, ma túy, mà còn ngăn ngừa rủi ro thiên tai hoặc phòng vệ các nguy cơ khác. 

Bốn là, vai trò cứu trợ. Cứu trợ là một hình thức được thực hiện thường xuyên và đột xuất cho nhóm người chưa hoặc không có khả năng vượt qua các hoàn cảnh của họ như tàn tật, trẻ mồ côi, nạn nhân chiến tranh, người khuyết tật vĩnh viễn…với nhiều hình thức và sự đa dạng về huy động nguồn tài chính trong xã hội.

Năm là, vai trò ưu đãi. Vai trò ưu đãi trong hệ thống ASXH của Việt Nam nhằm bảo đảm cho nhóm người có công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước và nhóm người hoạt động cống hiến vì lợi ích cộng đồng mà gặp tai nạn rủi ro dẫn đến họ mất các khả năng hoặc giảm thiểu khả năng cạnh tranh sinh tồn và phát triển trong đời sống xã hội. Đó là các thương bệnh binh, con cái họ và những người có công khác. Vai trò ưu đãi xã hội gắn với trách nhiệm xã hội của một thể chế chính trị, vì vậy trách nhiệm chính yếu thuộc về Nhà nước.

5. Đặc điểm của chính sách An sinh xã hội

ASXH là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống các CSXH của bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Nó còn là thước đo về trình độ phát triển, về tính nhân văn và thể hiện bản chất nền chính trị một quốc gia. Nó có những đặc điểm chủ yếu sau đây:

Đặc điểm xã hội của nó là hướng tới giải quyết các quyền và các nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội về quyền sống khỏe mạnh, quyền làm việc, quyền cư trú và quyền mưu cầu hạnh phúc…

- Đặc điểm điều hòa lợi ích xã hội, hướng tới đối tượng các nhóm cư dân nghèo đói do sự khác nhau về văn hóa, về địa bàn cư trú, về các yếu tố không đồng đều trong việc hưởng lợi các nguồn tài nguyên quốc gia và những cơ hội khác hoặc vì các yêu cầu cư trú sinh hoạt (nơi biên giới, hải đảo)… nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên hay lợi ích an ninh quốc gia…

- Đặc điểm nhân văn xã hội. Nó được hình thành trên một nền tảng truyền thống lịch sử cộng đồng dân tộc Việt. Đó là sự đùm bọc và che chở lẫn nhau trong hoạn nạn, rủi ro, trong tai biến bất thường, hoặc các biến cố chính trị xã hội… Đất nước càng phát triển, nhà nước càng phải chú trọng đến nền ASXH cho mỗi người và mọi người dân, làm cho an dân là làm cho sự trường tồn của đất nước.

6. Các nhân tố tác động tới An sinh xã hội         

Sự tác động của các nhân tố tới hệ thống ASXH có nhiều nhưng có thể tựu chung lại gồm: i) Trình độ hay mức độ phát triển của một quốc gia dân tộc (bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và an ninh quốc phòng) trong tương quan phát triển chung của thế giới tại một thời điểm lịch sử cụ thể; ii) Mô hình và nền tảng của một nền kinh tế, nhất là chính sách cụ thể của mô hình cải cách kinh tế - xã hội. Kinh tế thế nào, mô hình phát triển của nó ra sao thì hệ thống ASXH phải bắt buộc tương thích với nó; iii) Sự tác động của năng lực và trình độ hoạch định chính sách của bộ máy cầm quyền. Hệ thống ASXH, phụ thuộc vào CSXH và nó chính là sản phẩm của bộ máy Nhà nước và được điều chỉnh bởi cơ chế, phạm vi, thời điểm và quá trình hoạch định chính sách cùng các giải pháp để thực hiện CSXH; iiii) và cuối cùng, ASXH phụ thuộc vào sự tham gia của cộng đồng. Sức mạnh của chính sách, hiện thực hóa nó trong đời sống và xã hội hóa huy động các nguồn lực tài chính, nguồn lực con người…sẽ được thành công nếu tạo ra được sức mạnh từ cộng đồng và xã hội.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng; khi mà các sức mạnh của thông tin và những liên kết khác đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia; khi mà hội nhập có yêu cầu cao chưa từng có song hành với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước đang đặt ra thì vấn đề ASXH cần phải được coi nó là một chỉ báo của sự ổn định và phát triển. Mọi hoạt động của xã hội đều phải hướng về con người - mà con người là trung tâm thì an sinh cho con người phải được coi là quan trọng và trước hết. Nền ASXH Việt Nam đúng nghĩa, đúng thực chất và nhân bản đang cần được tiếp tục hoàn thiện, cần được chuyển đổi mạnh mẽ và phù hợp. Nếu vậy, phải có sự quan tâm can thiệp mạnh mẽ của Nhà nước, của thể chế chính trị nhằm làm cho hệ thống/nền ASXH vừa là chỉ báo sự phát triển và ổn định nền kinh tế; đồng thời nó cũng là nguồn lực cho sự phát triển bền vững của quốc gia dân tộc.

Vì vậy, đổi mới để hoàn thiện hệ thống ASXH, trước hết là đổi mới tư duy nhận thức về nó./.

TheoTạp chí Cộng sản